Một vị sư - Một đóa sen
Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè
nóng bức oi ả nhất của thập niên tám mươi tại miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam
Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như nằm yên duới sức nóng như thiêu đốt, ngay cả về
đêm cái nóng như vẫn còn âm ỉ, mọi thứ như tỏa ra hơi nóng, những bức tuờng,
những sàn lót gạch hung hung đỏ, cái sân tráng xi măng truớc mặt, ngay cả cái
ván lót trên sàn nằm cũng toát ra hơi nóng. Những nguời tù nhân chính trị chế
độ cũ như trong một lò ngục tối trên trần gian, ban ngày thì lao động khổ sai
đổ mồ hôi không phải đổi lấy bát cơm mà đổi lấy ít thức ăn độn như khoai hay
sắn hay bo bo mà vẫn không đủ no, ban đêm thì cố giỗ giấc ngủ trong cái nóng như
nung như đốt ấy trong cái cảnh nằm xếp hai từng như cá đóng hộp trong buồng
giam. Mồ hôi lại đổ ra cho đến khi mệt lả nguời đi thì giấc ngủ chập chờn mới
đến.
Cái nóng kinh nguời đã kéo dài cả
tháng nay và đồng ruộng đã nứt nẻ, các em bé chăn trâu mà Trung và các bạn gặp
trên đuờng đi lao động cũng môi khô và chui vào các bụi cây trú nắng. Các giếng
nuớc cũng từ từ khô cạn đưa đến nạn thiếu nuớc trầm trọng cho cả dân chúng
những làng bên ngoài lẫn những nguời tù khốn khổ trong trại.
Buổi trưa hôm đó cũng như mọi ngày
sau khi lao động về, ăn xong phần ăn trưa ít ỏi, các nguời tù cố nằm giỗ giấc
ngủ ngắn để lấy sức lao động buổi chiều thì thấy một vị sư già đang ngồi ngoài
sân nắng trong thế kiết già cả nửa tiếng đồng hồ và mặt nguớc nhìn thẳng lên
trời. Những khi hạn hán thì thầy vẫn cầu nguyện như thế và sau đó chiều tối hay
truớc nửa đêm thể nào mua giông cũng kéo đến. Đêm nay cũng thế, Trung cố giỗ
giấc ngủ để mà mai còn sức trả cái nợ lao động nhung không làm sao nhắm mắt
đuợc, mồ hôi trên nguời cứ nhỏ từng giọt như làm cho sức khỏe của anh cạn dần
đi theo đêm. Anh nhớ tới thằng bạn thân nằm bên cạnh nói với anh hồi chiều rằng
chỉ uớc ao ông Trời cho một trận mưa chứ đã tù cả chục
năm rồi cũng chẳng mơ uớc xa xôi gì ngày trở về nữa.
Thế rồi, như một phép lạ những làn
gió mát từ đâu từ từ thổi đến, len lỏi vào những khung cửa sổ, luồn duới những
cánh cửa buồng giam và từ xa xa vài lằn chớp nhoáng lên bên trời. Chẳng bao lâu
sau thì những giọt mưa, ôi những giọt mưa cam lồ của Trời ban xuống nhu thêm
sức mạnh cho những nguời tù biệt xứ lưu đầy. Các buồng giam không ai bảo ai đều
thức dậy và tung mùng ra để đuợc hít thở những giây phút mát ruợi của làn gió
lùa vào trại giam.
Vô tình Trung nhìn xuống nơi vị sư
già giam cùng buồng với anh, thầy vẫn như còn đang ngồi thiền trong mùng, mặt
quay vào tuờng trong thế kiết già. Trung chợt hiểu và các bạn anh cũng hiểu
rằng chính nhờ thầy cầu nguyện mà đã có trận mưa đêm nay. Vị sư già đó chính là
Trung Tá Quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo của QLVNCH – Thuợng Tọa Thích Quang Long, một nguời tù xuất chúng
đã làm cho kẻ thù phải cúi đầu kính nể. Giang sơn của thầy cũng là một tấm
chiếu, hai bộ quần áo tù, và một cái chăn đỏ Trung Quốc như mọi nguời và nằm
một dãy với các Đại Đức Tuyên Úy khác.
Anh nhớ đến thầy Khuê, một vị Tuyên
Úy Phật Giáo và Tam Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo võ đuờng Quang Trung, một vị Đại Đức
mà anh rất mến thương và kính trọng, đã từng nói với anh rằng nếu nói về đạo
Phật, về sự tu hành thì hãy lấy thầy Long mà làm gương; đừng vì một vài vị Tuyên
Úy đã không nghiêm giữ đuợc giới răn mà hiểu lầm về đạo Phật mà mất đi niềm
tin.
Anh nhớ lại câu chuyện lúc mới buớc
chân vào trại giam Long Thành sau khi Sài Gòn sụp đổ và hầu như mọi nguời đều
không biết bấu víu vào đâu, niềm tin vào các tôn giáo cũng bị lung lay thì một
sự việc đã xảy ra làm mọi nguời đều kính trọng thầy, nhất là khi biết hai tòa đại sứ bạn đã đến đón thầy đi di tản truớc đó nhưng
thầy đã khẳng khái chối từ và thanh thản buớc chân vào trại giam.
Trong thời gian mới bị giam giữ, một
hôm thầy đuợc gọi ra làm việc để gặp hai vị sư quốc
doanh là Thuợng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này ra
sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào “Phật giáo yêu
nuớc”, và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để
nhờ thầy góp công góp sức xây dựng phong trào Phật Giáo Yêu Nuớc này. Hai vị sư
này chính là nguời mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực
luợng Cảnh Sát Quốc Gia đa bắt giam truớc năm 1975 vì hoạt động cho Cộng
Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị đầy ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì thuờng
đuợc gọi là ông Từ Đàm vì tu ở chùa này ngoài Huế. Sau đó chính Thuợng Tọa
Thích Thanh Long là nguời đã đứng ra bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối
cải mà trở về lại con đuờng tu hành vì họ đã bị lộ hình tích. Không ngờ ông trời
trớ trêu để có ngày họ lại đến trại Long Thành và đối đầu với thầy trong hoàn
cảnh đặc biệt này của đất nuớc.
Thầy nhìn hai vị sư quốc doanh kia và từ tốn chậm rãi nhưng thật cương quyết thầy nói:
“Các ông đã dựng nên cái phong trào “Phật Giáo yêu nuớc” ấy thì các ông cứ tiếp
tục công việc mà các ông đã làm, còn tôi là một Tuyên
Úy trong quân đội và tôi sẽ theo chân các Phật tử trong các trại giam,
họ đi đến đâu thì tôi cũng sẽ đi đến đấy với họ cho tới cùng. Thôi các ông về
đi”.
Và sau đó thầy chấp nhận việc chuyển trại ra Bắc mở đầu cho một quãng đời biệt xứ lưu
đầy.
Những ai có may mắn gặp thầy trong
trại giam thầy đều kính trọng vị sư già này, nguời mà lúc nào cũng như mỉm
cuời, hòa nhã, giản dị, khiêm tốn và giúp đỡ tất cả mọi tù nhân mỗi khi thầy có
phuong tiện.
Năm 1976, thầy cùng một số Tuyên Úy
chuyển trại từ Nam ra Bắc và bị giam giữ tại trại 1 Son La hay còn gọi là trại
Muờng Thái là nơi mà truớc kia Pháp đã từng giam giữ những tù nhân bị án lưu
đầy. Năm sau thì thầy có tên trong số những tù nhân di chuyển về trại Yên Hạ,
trại giam này nằm duới thung lung và bao vây chung quanh bởi những dãy núi đá
vôi, thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Son La. Trại Yên Hạ là nơi chuyên giam giữ những
tử tội hình sự cuớp của giết nguời mà đã đuợc nhà nuớc “khoan hồng” tha cho tội
chết.
Chỉ hơn một năm sau thì các tù nhân
này dần dần kiệt sức vì lao động khổ sai, thiếu
dinh duỡng, thiếu ăn nhất là thiếu chất mỡ và đuờng, và vì khí độc từ dãy núi
đá vôi phả vào từ chung quanh. Bởi thế chỉ sau một thời gian ngắn chuyển trại
từ trong Nam ra ngoài Bắc, ai nấy đều gầy như bộ xuong còn
biết đi. Khi đi lao động hay đi trở về trại, nguời ta chỉ thấy những bộ quần áo
tù phấp phới bay mà chẳng thấy da thịt đâu. Thế rồi sau bốn năm trời giam cầm
và lưu đầy, một số những nguời tù lần đầu tiên đuợc nhận một gói nhỏ tiếp tế
cực kỳ quí giá từ gia đinh trong Nam gửi ra, một số khác thì vẫn chua nối lại
đuợc sợi dây với gia đinh trong Nam. Trong gói nhỏ mà các Phật tử gởi cho thầy
Long có 15 cục đuờng móng trâu, lúc đó ai mà có đuợc 5 cục đuờng như thế thì đã
là thần tiên rồi, nhung thầy từ từ đem ra phân phát hết 15 cục đuờng quí giá đó
cho những nguời cùng buồng. Ưu tiên những tù nhân nào mà đã kiệt lực thì đuợc
một cục, những nguời đau ốm khác thì mỗi nguời đuợc nửa cục mà thôi, còn riêng thầy thì không có một miếng đuờng nào hết.
Những nguời tù này khi nhận đuợc cục đuờng từ tay thầy phân phát đã không cầm
đuợc nuớc mắt truớc tấm lòng vị tha, quảng đại vô biên của một vị sư mà tâm đã
định và huệ đã ngời sáng.
Thầy cũng không thoát đuợc những vụ hỏi cung, một hình thức tra tấn tinh thần những
nguời tù khốn khó này trong trại giam. Một tên cán bộ từ Hà Nội vào với mái tóc
hoa râm có vẻ là một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ đã hỏi cung thầy trong
ba ngày liên tiếp. Hắn vứt cho thầy tờ giấy để tối về khai báo những tội lỗi đã
chống đảng, nhà nuớc và nhân dân truớc kia khi hoạt động ở Sài Gòn cho Nha
Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sáng hôm sau, khi kêu ra làm
việc tiếp tục, thầy đã nộp bản khai báo cho hắn, vừa xem xong thì hắn đùng đùng
nổi giận ném tờ khai xuống bàn và quát tháo:
“Anh khai báo thế này hả? Tại sao
anh lại chép Bai` Kinh Đại Bi vào đây? anh muốn
tù rục xương ra không?”.
Vẫn thái độ bình tĩnh và từ tốn của một vị cao tăng thầy chậm rãi trả lời:
“Thì đây chính là những gì mà tôi đã
làm và đã tụng niệm khi xưa, có thế thôi!”.
Hắn với vẻ mặt hầm hầm liệng cho thầy một tờ giấy khác để khai báo lại một cách thành khẩn để đuợc sớm khoan hồng. Sáng ngày hôm sau, thầy nộp cho hắn một tờ thứ hai và trên tờ đó thầy chép lại thật nắn nót bài Kinh Bát Nhã. Đến đây thì hắn nổi điên lên và mạt sát thầy thậm tệ và đe dọa rằng thầy sẽ tù mọt gông và đừng mong sẽ đuợc huởng luợng khoan hồng. Thầy ung dung trả lời rằng:
“Các ông cứ việc giam giữ tôi bao
lâu cũng đuợc, tôi chỉ xin các ông hãy thả hết những nguời tù chính trị chế độ
cũ mà các ông đang giam giữ mà thôi”.
Từ đó đến sau, chúng ít khi kêu thầy
ra hỏi cung nữa cho đến mãi năm 87, truớc khi có một
đợt thả lớn tại trại Ba Sao Nam Hà thì trong các vị Tuyên Úy bị hỏi cung có tên
thầy. Nhưng đặc biệt lần này chúng gọi thầy
bằng thầy chứ không gọi là anh như truớc nữa, tuy nhiên chúng vẫn dụ dỗ
thầy nhận tội để đuợc khoan hồng. Thầy trả lời rằng các ông cứ thả hết các ông
đại đức tuyên úy ra đi vì họ chẳng có tội lỗi gì hết tất
cả đều do tôi và họ đều làm theo chỉ thị của tôi hết, muốn gì thì cứ giữ
tôi ở lại đến bao lâu cũng đuợc. Chúng đành chào thua và chỉ vài tháng sau thì
thầy có tên trong danh sách đuợc thả ra khỏi trại cùng
với tất cả các đại đức và những vị mục sư linh mục khác trong các Nha Tuyên Úy
quân đội.
Thầy ở tù 12 năm, một năm trong Nam
và muời một năm lưu đầy trong những trại giam đuợc dựng lên nơi rừng thiêng núi
độc miền Bắc.
Về miền Nam, thầy trở lại chùa Giác
Ngạn trên đuờng Trương Minh Ký cũ ở Sài Gòn để lại lo Phật sự, cúng kiến giúp
đỡ các gia đinh Phật tử. Khi đi đâu tụng kinh thầy vẫn đơn
sơ trong chiếc áo nâu sòng và phe phẩy chiếc quạt đã sờn rách và môi
luôn nở nụ cuời hiền hậu giống như một ông già nhà quê chất phác hiền lành.