- Ngôn ngữ tam muội của Thiền sư Viên Chiếu - Như Hùng

22/02/201212:00 SA(Xem: 8420)
- Ngôn ngữ tam muội của Thiền sư Viên Chiếu - Như Hùng



NGÔN NGỮ TAM MUỘI CỦA THIỀN SƯ VIÊN CHIẾU

 

Như Hùng

(tiếp theo kỳ trước)

 

THIỀN NGỮ THI CA

 

Thiền sư Viên Chiếu được kể như vị thiền sư thi sỹ tài ba của thiền phái Vô Ngôn Thông, ngài đã xử dụng hình ảnh thi ca làm biểu tượng thiền ngữ một cách linh động tuyệt vời nhất. Thoại đầu, công án bằng thi ca, được kể như sự cảm quan, xúc giác đến tới hai lần một lúc. Lần đầu là những trăn trở rung động thường nghiệm để thức giác vụt khởi. Lần thứ hai những thâm nhập trong tận cùng, những đào xới đến cùng cực bản chất hiện thể, để những linh hiện của tâm giác cứ thế trào dâng, giác ngộ tung mình thức dậy, cả hai đồng lúc trở mình, hoá thân hoà nhập thành một thể duy nhất. Trước ngài, thiền sư Thiền Lão cũng đã xử dụng thi ca làm công án, khi vua Lý Thái Tông vào núi thăm, dưới đây là mẫu đối thoại:

Vua: Ngài ở đây từ bao lâu rồi?

Thiền Lão:

- Sống trong giờ hiện tại

Ai hay năm tháng xưa?

( Đản tri kim nhật nguyệt

Hà thúc cựu xuân thu)

Vua:

- Ngài làm gì hằng ngày ở đây?

Thiền Lão:

- Trúc biết hoa vàng đâu ngoại cảnh

Trăng soi mây bạc hiện toàn chân.

( Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân)

Vua:

- Như vậy ý chỉ là gì, xin ngài cho biết?

Thiền Lão:

- Nói nhiều lời, sợ sau này bất lợi."

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1 trang 175


Ý niệm về thời gian, không gian, bốn mùa xuân hạ thu đông, trăng tròn rồi khuyết, ngày và đêm nó đã hoàn toàn đội nón ra đi biến mất khỏi tâm thức của Thiền Lão. Ngài vượt ra ngoài đối tượng nhận thức, nội giới ngoại giới, tâm cảnh. Chỉ có nổ lực thoát khỏi vô thường, tử sanh, mới là điều gấp rút cần phải trực diện giải quyết. Như bài kệ cảnh tỉnh sách tấn, ta thường trì tụng ở trong Kinh Nhật Tụng: " Một ngày trôi qua, mạng sống theo đó giảm dần, như cá thiếu nước, có gì mà vui. Đại chúng! Phải chuyên cần tinh tấn, như cứu đầu đang bị đốt cháy, nhận biết sự vô thường, đừng có buông lung." (Thị nhựt dĩ quá, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc. Đại chúng! Đương cần tinh tấn, như cứu đầu nhiên, đản niệm vô thường, thận vật phóng dật ).

 

Một niệm khi khởi lên, nó vụt tắt qua mau, niệm khác liên tục kéo đến, niệm niệm chồng lên nhau, cất bước động chân là đã tạo nghiệp, ngồi bất động nhưng để tâm thức dong ruỗi cũng đã rơi vào sinh tử. Đó là những việc thúc bách, ta cần phải quan tâm trăn trở, cần phải nổ lực tác động để vượt thoát. Điều mà Thiền Lão thiền sư đang tràn ngập, đang cảm nhận hiện hữu ở trong tâm, trong phút giây hiện tại tuyệt vời đó, là trúc biết, hoa vàng, là trăng soi mây bạc, là toàn chân. "Trúc biết hoa vàng đâu ngoại cảnh.Trăng soi mây bạc hiện toàn chân". Chứ không phải tâm và cảnh đến đi, nuối tiếc thất vọng, hiện thực phi thực, tất cả hoà nhịp với nhau, chân như xuất hiện. Thời gian lẫn không gian nhạt nhoà, tan biến nơi ngài từ thưở nào, đâu đó chỉ có thực tại an lạc linh hiện, trong sáng tròn đầy ngự tác trên từng hiện hữu.

 

Thiền kêu gọi đến phút giây hiện tại, ngộ phải tức khắc ngộ, ngay từ bây giờ ngay tại phút giây này, ngay tại sát na nầy. Không có kiểu nửa tỉnh nửa mê, nữa quên nữa nhớ, chấm dứt quá khứ, bỏ đi vị lai, chỉ sống với cái hiện tại, những tác động phải tác động ngay từ bây giờ và với cái tâm thức nầy, con người nầy, ngoài điều nầy ra tất cả đều trở nên vô nghĩa. Bởi lẽ thực tại vốn như thị hằng viễn, do vì chúng ta áp đặt cưỡng chế, thật ra nó chỉ là chuổi dài liên kết với thành trụ hoại không, kéo từ quá khứ chảy đến hiện tại rồi trôi về tương lai. Ý niệm về thời gian phải hoàn toàn biến mất, chỉ có vô minh, sanh tử vô thường, phiền não đau đớn mới là điều cần phải giải quyết, cần phải chấm dứt .


Có vị tăng hỏi: Như thế nào " không khác ngày nay" ?

 Viên Chiếu thiền sư trả lời:

 " Cúc trùng dương dưới dậu

Oanh ngày ấm đầu cành."

 

Giác ngộ là kết quả của sự nổ lực tỉnh thức, của sự bùng lên thoát ra, ta cần phải châm ngòi trổi dậy, ngay từ phút giây bây giờ của đời sống hiện thực. Quá khứ hiện tại vị lai, đều là sản phẩm của ý thức do con người tạo ra. " Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc." Vậy ta dùng đến cái tâm nào để đắc? Trong khi sự biến đổi nhanh chóng bất định của tâm thức liên tục dẫn dắt xô đẩy ta, nó nhanh như một lằn chớp một tia sáng, ta dùng đến yếu tố thời gian để thẩm định nó đã vụt mất tự bao giờ. Ta cần phải liên tục thức tỉnh, ngay trong từng phút giây của mỗi sát na, một sự đi qua đã là quá khứ, dù chỉ một sát na tích tắc, để một điều gì xen vào lũng đoạn là ta đã bị trôi ngược về quá khứ, tự mình đánh mất phút giây hiện tại. Cần phải duy trì sự tỉnh thức một cách liên tục, thường hằng, không có khởi đầu hay chấm dứt, không có vô thủy hay vô chung. Làm sao ta có thể quật tung được cái phút giây hiện tại nầy, trong sự liên kết của thời gian, tâm thức, vô minh, của những biến động, khiến ta chìm dần, chìm mãi, chìm luôn?

 

Phút giây hiện tại 

Sách Thiền Uyển Tập Anh chép về ngài Vô Ngôn Thông trong khi dạy thiền sư Ngưỡng Sơn học. Thiền Sư Ngưỡng Sơn hồi đó mới xuất gia, mười bảy tuổi. Một hôm Vô Ngôn Thông bảo Ngưỡng Sơn: “Chú khiêng cái ghế kia qua đây cho tôi một chút”. Khi Ngưỡng Sơn khiêng ghế tới, ông nói: “Chú khiêng trở lại chỗ cũ” Ngưỡng Sơn khiêng lại chỗ cũ, ông lại hỏi Ngưỡng Sơn: “Bên này có gì không?” Ngưỡng Sơn đáp: “không có gì” Ông lại hỏi: “còn bên kia có gì không?” Sơn nói: “không có” Ông gọi: “chú ơi!” Ngưỡng Sơn đáp: “Dạ”. Ông bèn nói: “Thôi chú đi đi”.

Chiếc ghế ở bên ngoài còn xê dịch đem qua chạy lại, chứ bên trong tâm thức có dễ dàng để ta cầm giữ. Ranh giới của thực tại, thức giác về tâm cảnh, nó mong manh như đường tơ kẻ tóc, sai một ly đi một dặm, ta phải cẩn trọng tác động thẩm thấu, quán chiếu ngay lúc nầy, dồn tất cả mọi năng lực tu chứng để duy trì cho tâm thức luôn được an tịnh, quyết không để tạp niệm xen vào khiến mình vụt trôi bỏ lỡ, một khi đã đánh mất có hối hận thì đã muộn màng.

 

" Nước đựng đầy thau bưng bất cẩn

 Vấp chân soài ngã hối làm chi."

 

Một khi ta biết đương đầu trực diện, biết vận dụng tất cả bản năng, cùng nội lực đánh thẳng vào tận cùng bản chất của nó, với tất cả sức lực bình sanh khiến nó vỡ tung ra, chỉ có lúc ấy và khi ấy ánh sáng tuyệt vời của trí tuệ mới thật sự xuất hiện. Sự khổ đau ta đối diện hằng ngày ấy, dù cảnh khổ có khác nhau, nhưng bản chất khổ thì giống nhau, ta có bàn cải nói năng, có mời gọi hoặc tẩy chay nó vẫn hiện diện. Trong ta có hai vấn đề quan trọng phải giải quyết dứt khoát, đó là vô thường sanh tử và an lạc giác ngộ, khi ta chọn điều nào thì cái ấy sẽ có mặt, sống và thở cùng ta. Ta chọn khổ đau hay an lạc, ta giằng co phân vân bí lối, nó cũng theo đó nhập nhằng sớm hôm, khi nào ta thật sự quyết tâm thay đổi nó sẽ cùng ta đi trọn hành trình, ta sống với khổ đau, khổ đau theo ta trong từng hơi thở, ta sống trong an lạc, an lạc theo ta trong từng giấc ngũ. Ta kêu gào than vãn, ta khổ đau quằn quại, tại vì ta cứ để cho điều ấy, cứ thế mà trưởng thành ở lại mãi trong ta. Một khi ta biết loại trừ, để cho an lạc hạnh phúc nổi lên ngự trị, để cho tỉnh thức phủ vây, quay về sống với an lạc nơi nội tâm, với bản thể thường hằng của tự tánh, thì làm sao phiền não khổ đau có cơ may xen vào tác động. Đi đâu về đâu đến đâu, đều do ta chọn lựa, còn không cứ thế mà trôi mà nổi.

Hỏi:

- Nếu gặp khi bức bách

Hai đường theo nẽo nào?

Sư đáp:

- Phóng đãng tùy ý thích

Tiêu giao với gió trăng.

 

Trong sự bức bách truy cứu đến tận cùng của đời sống, lối nào để ta đi, nẽo nào để ta đến, ngài chỉ cho ta cánh cửa tuyệt vời của tự do đi lại, thong dong trên muôn nẽo. Về phương diện ngôn ngữ, dù cho mật ngữ, một lời nói bí hiểm, ẩn chứa sự thâm kín đến đâu, vẫn chưa có gì bí hiểm, bởi lẽ nó phải trãi qua để hình thành dệt nên, đúng ra chỉ là thuật ngữ, một phương tiện thách đố tâm thức của ta về một điều gì. Nhưng trong thoại đầu, trong công án không còn là sự thách đố nữa, mà là đánh đổi giải quyết một cách dứt khoát để giác ngộ bùng lên, chứ không có kiểu vừa say vừa tỉnh, diệu dụng của nó được chôn dấu ở đàng sau ngôn ngữ, tự mình đào bới để lật tung nó lên. Muốn quật khởi, truy tìm ta phải bắt nhịp, phăng ra nguồn cơn, tìm ra bản thể hiện hữu thật sự của nó. Phương tiện không thể biện minh cho cứu cánh, bởi lẽ phương tiện chỉ có và nằm ở bên ngoài, trong khi cứu cánh nằm tận bên trong. Khi xử dụng đến phương tiện đưa đến cứu cánh, ta phải biết lúc nào cần gạt bỏ, rời xa, ta phải sống và thở từ trong ấy, uống được ngụm nước đầu nguồn thì ta mới có đủ năng lực, ngoài ra chỉ là sự vay mượn đến lý trí, sự viện dẫn đến kinh điển, tư tưởng của người khác, không tự mình tiêu hoá được, nó cùng chung số phận bị đào thải, bởi thời gian không gian.

 

Xây tổ trên màn trướng

Tóc râu xõa cành lau."

 

Cuộc sống ta đang cảm nhận, tươi đẹp hay ngang trái đều do ta tạo ra bây giờ hay vô lượng kiếp về trước. Tại sao có người an nhiên mĩm cười với cuộc sống, bằng lòng với hiện tại, chấp nhận hiện thực, cho dù đau khổ bệnh tật thiếu thốn trăm bề, có người lại than trời trách đất, lúc nào cũng cau có gắt gỏng với mọi người, những gì mà ta cho số phận là nghiệp quả, đều có thể chuyển hoá thay đổi được. Thông thường chúng ta chỉ lo ôm vào chứ không buông xã, lo tích lũy chứ không biết đoạn trừ, lo tranh dành chạy theo chứ không biết dừng lại, không ai dọn sẵn bàn tiệc hạnh phúc để mời ta tham dự, không khổ đau ngang trái nào mà không có nguyên nhân. Đức Phật, bậc đạo sư của nhơn thiên đã chỉ cho ta bốn chân lý ( Tứ Diệu Đế) đâu là nguyên nhân của khổ, thế nào là khổ, nhận biết con đường của khổ, phương pháp chấm dứt khổ. Đó là bài pháp đầu tiên của đức Phật ở vườn Nai và cũng là những lời dặn dò nhắc nhở cuối cùng của Phật, nói lên tầm quan trọng về bốn sự thật bất di bất dịch ấy. Ta suy tư hành động, sống và thở, nói năng tác nghiệp điều gì, thì điều ấy sẽ ngự trị trong ta, ta phiền muộn đau khổ, thì nhìn đâu cũng thấy khổ đau, ta lo sợ thì nhìn đâu cũng thấy bất an, ta huân tập điều gì thì trong ta điều ấy cứ thế xuất hiện. Nỗi đau sự khổ vẫn còn đó, nó loanh quanh lẫn quẩn đâu đây, có dịp nó lại xuất hiện tấn công ta, thỉnh thoảng tạm lắng một chút, nhưng như thế nó vẫn chưa thực sự rời xa ta. Nhưng nếu ta biết nhận ra được bộ mặt ngàn đời, nhận ra bản chất thật sự của nó, một khi ta biết quán chiếu tận cùng, nó sẽ tự động biến mất. Nhưng tại sao an vui hạnh phúc lúc nào cũng rời xa vòng tay của ta, sự khổ đau nhọc nhằn lúc nào cũng ở lại ? Do vì ta cứ ôm, vận nó mãi vào trong tâm, đến mức độ ở đâu cũng thấy nó, từ trong ra ngoài, từ hành động đến suy tư, kể cả trong hơi thở, trong giấc ngũ nó cũng theo ta sống cùng ta. Chưa một lần ta biết tỉnh thức, chưa một lần thảy nó xuống hố sâu, chưa một lần quẳng gánh lo, chưa một lần biết lắc đầu khước từ, thì làm sao nó không hiện hữu chiếm đoạt?. Khi nào ta thật sự chấm dứt, là lúc cởi bỏ tất cả ra khỏi tâm mình, nếu nó vẫn còn hiện diện, là do mức độ quán chiếu của ta chưa thâm nhập đến tận cùng, chưa đoạn trừ thật sự. Muốn có được hạnh phúc an lạc, ta phải tự mình nỗ lực xây đắp, tự mình thoát ra chứ không phải kéo vào, chỉ có chính ta, chủ nhân của an lạc khổ đau, sinh tử và niết bàn mới làm thay đổi được, ngoài ra không một ai, dù tự hào là đấng toàn năng cũng không bao giờ thay thế và làm được.

 

(Còn Tiếp)

Như Hùng


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
)